Hoàng Tuấn Thi Tập
Chinh Phụ Ngâm Khúc-Phần 3
Gơ sanh ngọc, mấy hồi không tiếng,
Ôm đàn tranh, mấy phiếm rời tay,
Xót người hành dịch bấy nay,
Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt,
Trống tiều khua như đốt buồng gan,
Vơ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly mới biết tân toan dường này.
Nếm chua cay, tấm ḷng mới tỏ,
Chua cay này, há có v́ ai?
V́ chàng, lệ thiếp nhỏ đôi,
V́ chàng thân thiếp lẽ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn,
Duy c̣n hồn mộng được gần,
Đêm đêm thường tới Giang Tân t́m người.

T́m chàng thủa Dương Đài lối cũ,
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa,
Sum vầy mấy lúc t́nh cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
Giận thiếp thân lại không bằng mộng,
Được gần chàng bến Lũng, thành Quan.
Khi mơ những tiếc khi tàn,
T́nh trong giấc mộng, muôn vàn cũng không!
Vui có một tấm ḷng chẳng dứt,
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi,
Ḷng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến nam băi che mặt nước,
Cỏ biếc um, dâu mướt màu xanh,
Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn c̣ đậu trước ghềnh chiều hôm.
Trông đường bắc, đôi cḥm quán khách,
Rưm rà cây xanh ngất núi non
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
Nghe thôi địch ngọc véo von bên lầu.

Non đông thấy lá hầu chất đống,
Trĩ sập sè, mai cũng bẻ bai
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió, lạc loài kêu sương.
Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu,
Ngàn thông chen chúc khóm lau,
Cách nghềnh thấp thoáng người đâu đi về.
Trông bốn bề chân trời mặt đất,
Lên xuống lầu thấm thoắt đôi phen.
Lớp mây ngừng mắt ngại nh́n,
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc quan?
Gậy rút đất dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên,
Ḷng này hóa đá cũng nên,
E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
Lúc nghoảnh lại ngắm mầu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong,
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong,
Ḷng chàng biết có như ḷng thiếp chăng?
Ḷng chàng ví cũng bằng như thế,
Ḷng thiếp đâu dám nghĩ gần xa.
Hướng dương ḷng thiếp như hoa,
Ḷng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng bởi tại bóng dương,
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần?
Chồi lan nọ trước sân đă hái,
Ngọn tần kia bên băi đưa hương,
Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
Ngửa trong xem vẻ thiên chương thẫn thờ.
Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ,
Đô. Khuê Triền buổi có, buổi không.
Thức mây đ̣i lúc nhạt nồng,
Chuôi sao Bắc Đẩu thôi Đông lại Đoài.


Mặt trăng tỏ thường soi bên gối
Bừng mắt trông sượng gội cành khô
Lạnh lùng thay bấy nhiêu thu
Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi.
Một năm một nhạt mùi son phấn,
Trượng phu c̣n thơ thẩn miền khơi,
Xưa sao h́nh ảnh chẳng rời,
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương.
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,
Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in
Gió xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương th́
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy,
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau,
Nọ th́ a? Chức, chàng Ngâu,
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông.
Thương một kẻ pḥng không luống giữ,
Thời tiết lành, lầm lỡ đ̣i nhau.
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,
Người đi thấm thoắt qua màu xuân xanh.
Xuân thu để giận quanh ở dạ,
Hợp ly đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhèo rối tơi bời,
Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.
Ḱa Văn Quân mỹ miều thủa trước,
E đến khi đầu bạc mà thương,
Mặt hoa nọ, gă Phan Lang,
Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng.
Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở,
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua,
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa,
Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ ḍng.
Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt,
Lầu hoa kia, phảng phất mùi hương.
Trách trời sao để nhỡ nhàng,
Thiếp rầu thiếp, lại rầu chàng chẳng quên.